Quân đội Vương_quốc_Armenia_(cổ_đại)

Dưới thời Tigranes Đại đế

Quân đội của Vương quốc Armenia đã ở đỉnh cao dưới sự trị vì của vua Tigranes Đại đế. Theo tác giả của Judith, quân đội của ông bao gồm chiến xa và 12.000 kị binh, có thể chỉ gồm kỵ binh nặng hoặc cataphract, thường được sử dụng bởi vương quốc Seleukosđế quốc Parthia. Ông cũng đã có 120.000 lính bộ binh và 12.000 cung thủ, cũng là một bộ phận quan trọng trong quân đội Parthia. Cũng giống như vương quốc Seleukos, phần lớn quân đội Tigranes là những người lính bộ. Sử gia Do Thái Flavius Josephus nói là có khoảng 500.000 người trong tổng số, bao gồm cả những người theo trại. Kết quả là, quân đội Armenia hành quân là một "lực lượng lớn bất thường, không đếm xuể, giống như châu chấu hay bụi của trái đất ". Dẫu vậy, nó không giống như những dân tộc du mục phương Đông. Bất chấp điều đó những đội quân Cappadocian nhỏ hơn, người Hy Lạp-Phoenicia, và quân đội Nabatea đều không đối chọi lại số lượng tuyệt đối những người lính của họ. Tuy nhiên, tổ chức quân đội La Mã với quân đoàn của nó đã đặt ra một thách thức lớn hơn nhiều cho người Armenia.[4]

Lưu ý rằng những con số được đưa ra bởi các sử gia Do Thái vào thời gian đó có thể được phóng đại, xem xét thực tế rằng nhà Hasmonea của người Do Thái đã thua cuộc chiến tranh chống lại Tigranes.

Lính bộ binh Armenia đội chiếc mũ giáp Mithras truyền thống.
Plutarch viết rằng các cung thủ Armenia có thể tiêu diệt địch thủ từ khoảng cách 200 mét với mũi tên chết người chính xác của họ. Người La Mã ngưỡng mộ và tôn trọng sự dũng cảm và tinh thần chiến binh của kị binh Armenia -lực lượng nòng cốt của quân đội Tigran. Nhà sử học La Mã Sallustius Crispus viết rằng kị binh Armenia [Ayrudzi] là "đáng chú ý bởi vẻ đẹp của ngựa và áo giáp của họ". Ngựa ở Armenia, từ thời cổ đại được coi như là một phần quan trọng nhất và niềm tự hào của các chiến binh.[5]

Dưới triều đại của vua Pap trong năm 370 SCN,quân đội của vương quốc Armenia có 90,000 người. Một số nguồn cho biết, 16.000 kị binh và 24.000 lính bộ binh được bổ sung cho Crassus trong năm 54 TCN bởi Artavasdes II và một đội quân 13.000 người đã được trao cho Marcus Antonius trong năm 36 trước Công nguyên.

Ayrudzi

Từ thời cổ đại ở Armenia đã tồn tại lực lượng kỵ binh "Azatavrear" bao gồm từ tầng lớp tinh túy của các bộ lạc Armenia, sau đó từ tầng lớp tinh túy của người dân Armenia. Kỵ binh"Azatavrear" là một phần chính của triều đình vua Armenia. Sau đó, trong thời trung cổ kỵ binh "Azatavrear" hoặc kỵ binh nặng Armenia đã được tuyển mộ từ quý tộc (con trai út của lãnh chúa Armenia) và được biết đến là AYRUDZI (người đàn ông và con ngựa, kị binh). Trong thời bình, kỵ binh Armenia được chia thành một số nhóm nhỏ có vai trò bảo vệ của nhà vua và gia đình của ông như những lãnh chúa Armenia. Một số kỵ binh Armenia tuần tra biên giới Armenia dưới sự chỉ huy của những tướng quân Armenia (sparapet). Nhóm kỵ binh Armenia này có nhiệm vụ chính là bảo vệ nhà vua Armenia và gia đình của ông trong thời kỳ cổ đại bao gồm từ 6000 kỵ binh giáp sắt nặng, và trong thời kỳ trung cổ - vào khoảng 3000 kỵ binh. Trong thời gian chiến tranh số lượng kỵ binh Armenia có thể đạt từ 10.000 lên 20.000 kỵ binh hoặc thậm chí cao hơn. Bên cạnh kỵ binh nặng Armenia, còn có kỵ binh nhẹ Armenia, mà chủ yếu là bao gồm từ kỵ cung[6]

Legio I Armeniaca

"Legio Armeniaca "dịch từ tiếng La tinh là lê dương Armenia và " prima " là "thứ nhất". Quân đoàn lê dương này là một trong những quân đoàn vào thời kì cuối của đế chế La Mã. Quân đoàn này được đề cập trong tác phẩm vào giai đoạn cuối thời cổ đại, được biết đến là Notitia Dignitatum. Nhiều khả năng Lê dương Armenia thứ nhất được thành lập vào thế kỷ thứ 2 hoặc 3 ở phần phía Tây của Vương quốc Armenia và có nhiệm vụ bảo vệ những vùng đất của Armenia khỏi sự xâm nhập. Đầu tiên là đơn vị đồn trú trên những vùng đất của Armenia mà nằm dưới sự kiểm soát của Đế chế La Mã. Lê dương Armenia thứ nhất đã tham gia chiến dịch Ba Tư của hoàng đế Julianus Tà Giáo trong năm 363.

Legio II Armeniaca

"Legio Armeniaca" dịch từ tiếng Latin là "lê dương Armenia" và "Secunda" là "thứ hai".Lê dương Armenia thứ hai cũng như quân đoàn lê dương Armenia thứ nhất là một trong những quân đoàn vào thời kỳ cuối của Đế chế La Mã. Quân đoàn này cũng đề cập đến trong Notitia Dignitatum. Lê dương Armenia thứ hai có thể được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 3 hoặc đầu thế kỷ thứ 4. Lê dương Armenia thứ hai đã có một trại đóng quân thường trú tại một trong các tỉnh phía Bắc của phương Đông. Quân đoàn này xây dựng một trại tại Satala. Quân đoàn lê dương Armenia thứ hai hơn nữa được đề cập đến trong năm 360 như một phần của các đơn vị đồn trú ở Bezabda (xưa gọi là Phoencia) ở thượng nguồn sông Tigris. Ở Bezabda, Lê dương Armenia Thứ hai đã phục vụ cùng với lê dương Parthica và II Flavia. Năm 390, Bezabda bị chiếm bởi người Ba Tư và một cuộc tắm máu khủng khiếp đã được tiến hành đối với cư dân và đơn vị đồn trú. Tuy nhiên, quân đoàn dường như đã sống sót trong trận chiến, bởi vì nó xuất hiện trong Notitia Dignitatum đã được viết vào thế kỷ thứ 5.

Sau đó quân đoàn lê dương Armenia thứ hai đã trở thành một phần của quân đội Byzantine.